1- Định nghĩa : Bệnh vẩy nến là do sự rối loạn nội tiết tạo nên một màng ngăn bám chặt trên da. Màng bám này sản sinh tế bào nhanh gấp 10 lần so với bình thường rồi chết. Nhưng thay vì mất đi như tế bào chết bình thường thì nó nổi lên thành từng vẩy trắng. . Bệnh lành tính, thường không ảnh hưởng đến sức khỏe nhưng ảnh hưởng đến thẩm mỹ tâm lí và những hệ lụy của nó. Nam gặp nhiều hơn nữ, người lớn nhiều hơn trẻ em. Bệnh phát thành từng đợt, có khi tăng giảm theo mùa. 2- Nguyên nhân Vẩy nến là do rối loạn biệt hóa lành tính của tế bào thượng bì. Cho đến nay vẫn chưa khẳng định rõ ràng nguyên nhân. Nhưng người ta biết chắc chắn 5 yếu tố sau đây làm nên cơ chế sinh bệnh:
+ Di truyền: Khoảng 30% bệnh nhân có yếu tố gia đình (cha, mẹ, anh chị em ruột hoặc họ hàng trực hệ); 70% các cặp song sinh cùng mắc. Các nghiên cứu đã chỉ ra : gen gây bện vẩy nến nằm trên nhiễm sắc thể số 6 dưới dạng tiềm ẩn có liên quan đến các kháng nguyên HLAW6, B13, B17, DR7
+ Nhiễm khuẩn: vẩy nến ở trẻ em, vẩy nến thể giọt người ta phân lập được liên cầu khuẩn ở tổn thương và điều trị kháng sinh thì bệnh thuyên giảm.
+ Stress: Làm bệnh tái phát hoặc đột ngột nặng lên.
+ Thuốc: Bệnh vẩy nến xuất hiện sau khi sử dụng một số thuốc: chẹn beta kéo dài, lithium, đặc biệt sau khi sử dụng corticoit
+ Hiện thượng Kobner: thương tổn mọc lên sau các kích thích cơ học (gãi, chà xát) hoặc các kích thích lí hóa (bệnh nặng nhẹ theo mùa).
3 - Các thể lâm sàng : Vảy nến có nhiều dạng khác nhau
· Vẩy nến ở da: Trên da có các mảng đỏ ranh giới rõ, phía trên có vẩy dầy màu trắng. Khi chạm vào vùng da bị bệnh thì thấy khô, cứng. Khó xác định hơn nếu thương tổn chỉ có ở đầu do tóc che khuất cho nên cần chú ý: nếu thấy ở đầu tự nhiên thấy gầu nhiều và dầy lên so với trước đây.
· Vẩy nến ở móng: Móng dầy hoặc có nhiều lỗ nhỏ trên bề mặt móng.
· Vẩy nến ở khớp: Các khớp bị biến dạng, bệnh nhân khó vận động.
· Vẩy nến thể mủ: Trên da có các mụn mủ khô và nông.
· Vẩy nến thể đỏ da toàn thân.
4 - Mô bệnh học
- Thượng bì có dầy sừng và á sừng , lớp sừng rất dày , dày gấp hàng trăm lần so với bình thường , đó là nhiều lớp tế bào á sừng ( là những tế bào sừng non còn tồn tại nhân ) và quá sừng xếp chồng lên nhau
- Lớp gai phía trên nhú bì mỏng chỉ còn 2 -3 lớp tế bào , nhưng ở phần các mầm liên nhú dày tới hàng trăm lớp tế bào , các mầm liên nhú dài ra , nhú bì bị kéo dài lên phía trên và biến dạng hình chuỳ
- Các tế bào lympho và bạch cầu đa nhân trung tính xâm nhập vào lớp gai tạo thành các vi áp xe Munro
- Gián các mao mạch ở chân bì
5 - Điều trị
Có 3 bước tiếp cận là: thuốc bôi tại chỗ, dùng thuốc đường uống (toàn thân) và quang hoá trị liệu. Thông thường các thầy thuốc dùng phối hợp các phương pháp trên.
- Tại chỗ :
Dùng các loại mỡ, kem, dung dịch với mục đích bong vẩy, tiêu sừng, hạn chế hình thành nhanh chóng vẩy da như:
- Toàn thân
Được chỉ định cho những trường hợp vảy nến thể nặng (đỏ da toàn thân, thể khớp, thể mủ) và phải có sự theo dõi chặt chẽ của thầy thuốc tại bệnh viện như:+ Methotrexate: ức chế hệ miễn dịch làm chậm quá trình phân bào. Thuốc có 2 dạng uống và tiêm, không dùng cho người bị bệnh gan, phụ nữ có thai vì thuốc có hại cho tế bào gan và máu, có thể gây quái thai. + Retinoid (soriantane, tigason) là một dạng của vitamin A acid được chỉ định cho các trường hợp vảy nến nặng. + Cyclosporine là thuốc ức chế miễn dịch làm chậm quá trình phân bào của tế bào da do vậy nhanh chóng làm sạch vảy, được chỉ định cho các trường hợp nặng, kháng lại các phương pháp điều trị khác. Thuốc gây độc cho thận và gây tăng huyết áp, do vậy bệnh nhân phải được theo dõi điều trị tại bệnh viện. + Alefacept (amevie) và etanercept (enbrel) là chế phẩm sinh học cũng có tác dụng rất tốt với bệnh vảy nến. Quang hoá trị liệu gồm các liệu pháp: Tắm nắng: Trong ánh nắng có tia cực tím (UV), khi hấp thụ vào da có tác dụng ngăn chặn tiến triển của bệnh, làm giảm viêm, chậm quá trình sừng hoá. UVB (tia cực tím nhóm B): Liệu pháp này có hiệu quả tốt cho vảy nến thể nhẹ và thể trung bình và những thương tổn kháng lại liệu pháp tại chỗ. Hiện nay ứng dụng UVB với bước sóng hẹp hiệu quả điều trị sẽ cao hơn. PUVA (phối hợp thuốc uống proralen và tia cực tím nhóm A): UVA (tia cực tím nhóm A) có bước sóng dài được hấp thu sâu hơn UVB còn proralen làm cho da tăng nhạy cảm với ánh nắng. Hiệu quả của PUVA cao hơn UVB, tuy nhiên liệu pháp này có một số tác dụng phụ như đau đầu, mệt mỏi, nóng rát và ngứa. Bệnh nhân sau khi uống proralen nên đeo kính râm và tránh ánh nắng trong 2 ngày. Tuy nhiên nếu điều trị PUVA kéo dài sẽ có nguy cơ ung thư tế bào gai và u hắc sắc tố da. Phối hợp PUVA với uống retinoid hiệu quả điều trị sẽ tốt hơn. II.Chàm,tổ đỉa
|
Chủ Nhật, 24 tháng 6, 2012
DANH MỤC BỆNH DA LIỄU
I.Vẩy nến
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét